Tuy nhiên, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến chuỗi cung ứng toàn cầu, đồng thời vốn xã hội nổi lên như một nguồn lực quan trọng đối với nông nghiệp (Lang và cộng sự, 2022c), việc đánh giá vai trò của nguồn vốn đặc biệt này đối với ý định đang dạng nông nghiệp dưới lăng kính chuỗi cung ứng cũng rất cần thiết. Sự hiểu biết sâu sắc này có thể giúp cải thiện hiệu quả chuỗi cung ứng nông nghiệp cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp nông nghiệp vượt qua khó khăn trong khủng hoảng. Hơn nữa, một sự đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của 03 thành phần vốn xã hội sẽ cung cấp một góc nhìn khác cũng như góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu vốn xã hội. Xuất phát từ bối cảnh học thuật này cũng như yêu cầu thực tiễn, nghiên cứu của Lang và cộng sự (2022b) đã đánh giá sự ảnh hưởng trực tiếp của 03 thành phần vốn xã hội này đối với ý định đa dạng nông nghiệp dưới lăng kính lý thuyết chuỗi cung ứng dựa vào đánh giá thái độ và ý định hành vi của đại diện doanh nghiệp nông nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam (Hình 3).
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng 03 thành phần vốn xã hội có vai trò quan trọng trong thúc đẩy ý định đa dạng nông nghiệp dưới lăng kính chuỗi cung ứng. Hơn nữa, nghiên cứu cũng đánh giá mối quan hệ nhân quả giữa 03 thành phần vốn xã hội với kết quả là vốn xã hội cấu trúc ảnh hưởng trực tiếp (tăng cường) 02 loại vốn xã hội còn lại. Mặt khác, nghiên cứu này cũng có chú ý trong phần giới hạn khi cho rằng tính nội sinh (hay đa cộng tuyến) chưa được giải quyết và có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, và vì vậy, “cần thực hiện một nghiên cứu sâu hơn nhằm điều tra bản chất của mối quan hệ giữa các khía cạnh này với các nhóm người trả lời khác nhau” (Lang và cộng sự, 2022b).
4.3. Đề xuất mô hình ảnh hưởng của vốn xã hội đối với khởi nghiệp bền vững dựa vào đánh giá thái độ và ý định của doanh nhân nông nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Từ thực trạng các vấn đề toàn cầu cũng như theo đề xuất của nhiều học giả (ví dụ: Squalli và Adamkiewicz, 2018; Kumar và cộng sự, 2021), phát triển nông nghiệp bền vững rất cần thiết. Đây là một xu hướng cần được cân nhắc. Cách tiếp cận hay định hướng chiến lược nông nghiệp này không chỉ giúp các thành viên trong chuỗi cung ứng (nông nghiệp/ thực phẩm) vượt qua khủng hoảng, phát triển ổn định mà còn góp phần giải quyết các vấn đề môi trường và xã hội hiện nay. Hơn nữa, như đã được thảo luận, vốn xã hội là một nguồn lực rất quan trọng trong nông nghiệp. Loại vốn này được đặc biệt khuyến khích khai thác và sử dụng trong bối cảnh "bình thường mới" hậu Covid-19 (Bhatti và cộng sự, 2020). Đặc biệt, vốn xã hội giúp tăng cường đổi mới và áp dụng công nghệ để từ đó giúp tăng trưởng thành tích kinh doanh (Lang và cộng sự, 2023a). Trong bối cảnh yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu cần bổ sung sự hiểu biết cho tài liệu, nghiên cứu của Lang và cộng sự (2022c) đã phần nào chỉ ra vai trò của vốn xã hội trong thúc đẩy nông nghiệp bền vững để góp phần lấp đầy khoảng trống trong tài liệu và cung cấp cơ sở phát triển giải pháp liên quan. Cụ thể, Lang và cộng sự (2022c) đã đánh giá vai trò của vốn xã hội nhận thức và vốn xã hội quan hệ trong việc thúc đẩy ý định khởi nghiệp nông nghiệp bền vững dựa vào đánh giá thái độ và ý định của đại diện doanh nghiệp nông nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, tức là các hộ gia đình hay các thành viên hợp tác xã nông nghiệp (Hình 4). Kết quả cho thấy 02 loại vốn này có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy ý định khởi nghiệp nông nghiệp bền vững.
Thêm vào đó, Lang và cộng sự (2023a) cũng đã tiến hành nghiên cứu sự ảnh hưởng của thành phần còn lại của vốn xã hội - tức là vốn xã hội cấu trúc đến ý định khởi nghiệp nông nghiệp bền vững dưới lăng kính khởi nghiệp xã hội (Hình 5).
Chúng tôi cho rằng công trình của Lang và cộng sự (2022c) và Lang và cộng sự (2023a) đã trả lời từng phần cho câu hỏi nghiên cứu của chúng tôi. Tuy nhiên, một mô hình tích hợp sự ảnh hưởng của vốn xã hội là điều cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh vốn xã hội có thể giúp tăng cường sự đổi mới và áp dụng công nghệ (Lang và cộng sự, 2023a). Dựa vào phân tích tài liệu vốn xã hội và TPB, đặc biệt là mô hình thang đo vốn xã hội (Hình 1), tác động của 03 thành phần vốn xã hội đến ý định đa dạng nông nghiệp tại Việt Nam (Hình 2 và 3) cũng như sự ảnh hưởng của vốn xã hội nhận thức và vốn xã hội quan hệ (Hình 4) và ảnh hưởng của 02 khía cạnh của vốn xã hội cấu trúc đến ý định khởi nghiệp nông nghiệp bền vững thông qua các yếu tố tâm lý như các thành phần TPB (Hình 5), chúng tôi cho rằng cả 03 thành phần vốn xã hội đều có vai trò quan trọng trong sự thúc đẩy khởi nghiệp nông nghiệp bền vững tại Việt Nam. Do đó, chúng tôi đề xuất mô hình tích hợp sự ảnh hưởng của vốn xã hội đến ý định khởi nghiệp bền vững trong nông nghiệp tại Việt Nam như sau (Hình 6).
Mặt khác, tài liệu học thuật cũng đã chỉ ra một số yếu tố tâm lý được bổ sung vào mô hình TPB để cải thiện khả năng dự đoán. Chúng tôi cho rằng ý định khởi nghiệp nông nghiệp bền vững cần có mục tiêu rõ ràng cũng như phụ thuộc rất lớn vào các điều kiện tạo thuận lợi (hay cản trở) việc thực hiện nông nghiệp bền vững. Vì vậy, các biến mục tiêu hành vi hay các điều kiện tạo thuận lợi cũng có thể được cân nhắc bổ sung vào mô hình đề xuất của chúng tôi như cách làm của một số tác giả khác, ví dụ, Lang và cộng sự (2023a) để cải thiện khả năng dự đoán ý định khởi nghiệp nông nghiệp bền vững của mô hình TPB.
4.4. Vấn đề đặt ra với phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam và gợi ý giải pháp
Bền vững được hiểu là một quá trình (Grunwald, 2016) trong khi "phát triển bền vững" là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai. Đồng thời, kinh tế sinh học liên quan đến an toàn sinh học là một trong ba cách tiếp cận chính để phát triển bền vững giúp giảm rủi ro về các vấn đề môi trường trong nông nghiệp (D'Amato và cộng sự, 2017) thông qua thực hành nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên, trong khi các nước đang phát triển (ví dụ: Việt Nam) phải đối mặt với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng và các mô hình hành vi sản xuất và tiêu dùng không bền vững có thể ngày càng trầm trọng hơn (Elhoushy và Lanzini, 2021), nông nghiệp truyền thống cũng thường phổ biến ở nhóm các nước này. Do vậy, việc chuyển đổi sang phát triển nông nghiệp bền vững (thông qua thực hành nông nghiệp hữu cơ) cần phải có sự phối hợp và nỗ lực rất lớn của các bên liên quan, bao gồm các cơ quan nhà nước, chuyên gia, các tổ chức tài chính, các nhà đầu tư, các tổ chức giáo dục, các tổ chức truyền thông, các doanh nghiệp nông nghiệp dẫn đầu và các hộ nông dân hay thành viên hợp tác xã nông nghiệp. Cụ thể, một số trở ngại và gợi ý giải pháp để thúc đẩy khởi nghiệp nông nghiệp bền vững ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, “nông nghiệp” hay “làm nông” thường được đánh đồng với nhau trong nhận thức của người dân Việt Nam và được xem là một công việc (thay vì là một nghề) ít vốn, thậm chí là “ít trí tuệ”. Song song đó, người làm nông nghiệp thường chỉ chú ý đến “cánh đồng” và “sản xuất” thay vì quan tâm khâu “bán hàng” (kinh doanh), tình hình thị trường và cạnh tranh. Do vậy, việc thúc đẩy chuyển từ sản xuất nông nghiệp truyền thống (thuận tiện) sang nông nghiệp hữu cơ sẽ rất thách thức với các nhà hoạch định chính sách xã hội cũng như bản thân “người” làm nông nghiệp. Giải pháp được gợi ý cho vấn đề này bao gồm: một, Nhà nước có chủ trương, chính sách xem “nông nghiệp” là một nghề như bao nghề khác, thậm chí bao gồm cả vấn đề bảo hiểm cho người làm nông nghiệp, đồng thời xem hộ gia đình làm nông nghiệp hay các thành viên hợp tác xã nông nghiệp là những chủ thể sản xuất – kinh doanh nông nghiệp siêu nhỏ, tức là các doanh nghiệp nông nghiệp siêu nhỏ hay hộ gia đình kinh doanh; hai, xây dựng chương trình đào tạo tinh thần khởi nghiệp cùng những kiến thức về kinh doanh và quản lý (cấp quốc gia) nhắm vào đối tượng là các “doanh nhân” tại các doanh nghiệp nông nghiệp siêu nhỏ này nhằm kích thích việc nhận ra cơ hội để thay đổi quan điểm của nhóm đối tượng này hướng đến khởi nghiệp, đặc biệt là khởi nghiệp nông nghiệp bền vững.
Thứ hai, “nông dân” thường “ít vốn” (bản thân họ cũng thường nghĩ như vậy) cũng như có phần hạn chế kiến thức về công nghệ, thị trường, kinh doanh và quản lý. Do đó, nhóm đối tượng này thường e ngại khi được đề cập đến vấn đề chuyển từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp bền vững. Giải pháp được gợi ý cho vấn đề này bao gồm: một, Nhà nước có chương trình (quốc gia) phát triển vốn xã hội cho nhóm đối tượng này, bao gồm các khóa đào tạo về vốn xã hội và tổ chức các hội, nhóm hay câu lạc bộ về nông nghiệp bền vững để gia tăng vốn xã hội cho nhóm đối tượng này cũng như kết nối với các chuyên gia để cải thiện “các điều kiện tạo thuận lợi” cho phát triển nông nghiệp bền vững; hai, chương trình (quốc gia) về khởi nghiệp nông nghiệp bền vững cũng nên được cân nhắc nhằm tạo cơ chế, chính sách hỗ trợ và thúc đẩy xây dựng cộng đồng nông nghiệp bền vững.
Thứ ba, có sự chưa rõ ràng về mặt truyền thông giữa nông sản và các sản phẩm từ nông sản là kết quả của nông nghiệp truyền thống và nông nghiệp bền vững (cố tình hay vô tình). Điều này gây trở ngại cho việc tiêu thụ sản phẩm từ nông nghiệp bền vững. Giải pháp được gợi ý cho vấn đề này bao gồm: một, Nhà nước ban hành khung pháp lý, chính sách hỗ trợ và chương trình phát triển nông nghiệp bền vững với xếp hạng nông sản và các sản phẩm từ nông sản là kết quả của nông nghiệp bền vững rõ ràng (có thể tham khảo cách xếp hạng 05 nhóm từ 1 đến 5 sao của chương trình OCOP); hai, Nhà nước cân nhắc quy hoạch những vùng sản xuất nông nghiệp bền vững theo nhiều cấp độ “bền vững”; ba, Nhà nước có chủ trương để các tổ chức truyền thông đại chúng chính quy ưu tiên tuyên truyền các thương hiệu sản phẩm từ nông nghiệp bền vững.
5. Kết luận
Phát triển nông nghiệp bền vững cần được chú trọng trong bối cảnh các vấn đề toàn cầu hiện nay. Vốn xã hội cũng được khuyến khích khai thác và sử dụng trong bối cảnh “bình thường mới” hậu Covid-19, đặc biệt đối với các đối tượng không có lợi thế về vốn kinh tế như các doanh nghiệp nông nghiệp vừa và nhỏ hay các hộ kinh tế gia đình, bao gồm các hộ làm nông nghiệp hay các thành viên hợp tác xã nông nghiệp. Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng kỹ thuật phân tích tài liệu để đề xuất mô hình tích hợp ảnh hưởng của vốn xã hội đối với ý định khởi nghiệp nông nghiệp bền vững thông qua các biến trung gian là các thành phần TPB để làm phong phú thêm nguồn tài liệu về vốn xã hội và TPB. Mặc dù mô hình đề xuất của chúng tôi được phát triển dựa vào các phát hiện từ các bài báo đã được công bố, chúng tôi cũng cho rằng việc kiểm định lại mô hình này với dữ liệu được khảo sát là cần thiết, đặc biệt với các nhóm đối tượng khác nhau nhằm nhận diện mức độ ảnh hưởng của các thành phần vốn xã hội để cung cấp sự hiểu biết sâu sắc hơn cho tài liệu học thuật.
Tài liệu tham khảo
Al-Omoush, K. S., Simón-Moya, V. and Sendra-García, J. (2020). The impact of social capital and collaborative knowledge creation on e-business proactiveness and organizational agility in responding to the COVID-19 crisis. Journal of Innovation and Knowledge, 5(4), 279-288.
Barba-Sánchez, V. and Atienza-Sahuquillo, C. (2018). Entrepreneurial intention among engineering students: The role of entrepreneurship education. European Research on Management and Business Economics, 24(1), 53-61.
Bhatti, S.H., Vorobyev, D., Zakariya, R. and Christofi, M. (2020). Social capital, knowledge sharing, work meaningfulness and creativity: Evidence from the Pakistani pharmaceutical industry. Journal of Intellectual Capital, 27(1), 25-42.
Chaudhuri, R., Chatterjee, S., Kraus, S. and Vrontis, D. (2022). Assessing the AI-CRM technology capability for sustaining family businesses in times of crisis: The moderating role of strategic intent. Journal of Family Business Management, 13(1), 46-67.
D’Adamo, I., Falcone, P.M. and Ferella, F. (2019). A socio-economic analysis of biomethane in the transport sector: the case of Italy. Waste Management, 95, 102-115.
D’Amato, D., Droste, N., Allen, B., Kettunen, M., Lähtinen, K., Korhonen, J., Leskinen, P., Matthies, B.D. and Toppinen, A. (2017). Green, circular, bio economy: A comparative analysis of sustainability avenues. Journal of Cleaner Production, 168, 716-734.
Elhoushy, S. and Lanzini, P. (2021). Factors Affecting Sustainable Consumer Behavior in the MENA Region: A Systematic Review. Journal of International Consumer Marketing, 33(3), 256-279.
Gonzalez, E.D.R.S., Zhu, J., Zanoni, S. and Maculan, N. (2018). Trends in operational research approaches for sustainability. European Journal of Operational Research, 269(1), 1-4.
Grunwald, A. (2016). What kind of theory do we need for sustainable development and how much of it? Some thoughts. Enders, J. and Remig, M (Ed). Theories of Sustainable Development, 1st edition, 16–29.
Hansson, H., Ferguson, R., Olofsson, C. and Rantamäki-Lahtinen, L. (2013). Farmers’ motives for diversifying their farm business: The influence of family. Journal of Rural Studies, 32, 240-250.
Kumar, S., Raut, R.D., Nayal, K., Kraus, S., Yadav, V.S. and Narkhede, B.E. (2021). To identify industry 4.0 and circular economy adoption barriers in the agriculture supply chain by using ISM-ANP. Journal of Cleaner Production, 293, 126023.
Lang, L.D. (2023). Social capital in e-commerce era: toward a deeper knowledge of its conceptualization and empirical measurement in agribusiness. South Asian Journal of Business Studies, 12(3), 409-426.
Lang, L.D., Behl, A., Dong, N.T., Temouri, Y. and Thu, N.H. (2022a). Effect of social capital on agribusiness diversification intention in the emerging market. Journal of Intellectual Capital, 23(1),56-84
Lang, L.D., Behl, A., Dong, N.T., Thu, N.H. and Dewani, P.P. (2022b). Social capital in agribusiness: an exploratory investigation from a supply chain perspective during the COVID-19 crisis. The International Journal of Logistics Management, 33(4), 1437-1473.
Lang, L.D., Behl, A., Phuong, N.N.D., Gaur, J. and Dzung, N.T. (2023b). Toward SME digital transformation in the supply chain context: the role of structural social and human capital. International Journal of Physical Distribution & Logistics Management, 53(4), 448-466.
Lang, L.D., Dong, N.T., Ferreira, J.J.M., Behl, A. and Dao, L.T. (2022c). Sustainable agribusiness entrepreneurship during the Covid-19 crisis: the role of social capital. Management Decision, 60(9), 2593-2614.
Lang, L.D., Tiwari, A.K., Hieu, H.N., Ha, N.M., and Gaur, J. (2023a). The role of structural social capital in driving social-oriented sustainable agricultural entrepreneurship. Energy Economics, 124.
Nahapiet, J. and Ghoshal, S. (1998). Social Capital, Intellectual Capital, and the Organizational Advantage. The Academy of Management Review, 23(2), 242-266.
Neto, G. C. O., Pinto, L. F. R, Amorim, M. P. C, Giannetti, B. F. and Almeida, C. M. V. B. (2018). A framework of actions for strong sustainability. Journal of Cleaner Production, 196(2), 1629–1643.
Neves, B. B. and Fonseca, J. R. (2015). Latent Class Models in action: Bridging social capital and Internet usage. Social Science Research, 50, 15-30.
Rouziès, D. and Hulland, J. (2014). Does marketing and sales integration always pay off? Evidence from a social capital perspective. Journal of the Academy of Marketing Science, 42, 511-527.
Sazvar, Z., Rahmani, M. and Govindan, K. (2018). A sustainable supply chain for organic, conventional agro-food products: The role of demand substitution, climate change and public health. Journal of Cleaner Production, 194(1), 564–583.
Sharma, G.D., Paul, J., Srivastava, M., Yadav, A., Mendy, J, Sarker, T. and Bansal, S. (2021). Neuroentrepreneurship: An integrative review and research agenda. Entrepreneurship & Regional Development, 33(9-10), 863-893.
Smith, J.R., Terry, D.J., Manstead, A.S., Louis, W.R., Kotterman, D. and Wolfs, J. (2007). Interaction effects in the theory of planned behaviour: the interplay of self-identity and past behaviour. Journal of Applied Social Psychology, 37(11), 2726–2750.
Squalli, J. and Adamkiewicz, G. (2018). Organic farming and greenhouse gas emissions: a longitudinal U.S. state-level study. Journal of Cleaner Production, 192, 30-42.
Xu, Y., Liang, Q. and Huang, Z. (2018). Benefits and pitfalls of social capital for farmer cooperatives: Evidence from China. International Food and Agribusiness Management Review, 21(8), 1137–1152.
Xu, Z., Wang, X., Wang, X. and Skare, M. (2021). A comprehensive bibliometric analysis of entrepreneurship and crisis literature published from 1984 to 2020. Journal of Business Research, 135, 304–318.
Zhang, P. and Cain, K.W. (2017). Reassessing the link between risk aversion and entrepreneurial intention: The mediating role of the determinants of planned behavior. International Journal of Entrepreneurial Behaviour & Research, 23(5), 793–811.
Zhang, S.X., Foo, M.-D. and Vassolo, R.S. (2021). The Ramifications of Effectuation on Biases in Entrepreneurship – Evidence from a Mixed-method Approach. Journal of Business Venturing Insights, 15, e00238.